Comrades in Arms
How the Americong Won the War in Vietnam
Against the Common Enemy— America
Copyright Roger Canfield, Ph.D.
1986-2012
No commercial transaction allowed except that approved by the author, copyright holder.
Obtain a prepublication release of a CD-R in Microsoft Word in ENGLISH at a discounted price of $15 from Roger Canfield Rogercan@pacbell.net at 7818 Olympic Way, Fair Oaks, CA 95628, 916-961-6718 or at http://americong.com.
Completely SEARCHABLE for any name, date, place or event of the War and its protesters.
Cover: Design Stephen Sherman. Photos: Roger Canfield, March 2008. TOP: War protest Hawaii, February 1966 displayed at War Remnants (Crimes) Museum, Saigon. Bottom: Praetorian Guard
Các đồng chí cùng chiến tuyến
Làm thế nào Mỹ–Cộng thắng cuộc chiến Việt Nam
Chống kẻ Thù Chung – Mỹ
Giữ bản quyền Roger Canfield, Tiến Sĩ
1986-2012
Không được sử dụng vào mục đích thương mại nếu không có sự đồng ý của Tác giả, người giữ bản quyền.
Có thể mua một tiền bản dưới dạng CD-R Microsoft Word bằng Anh ngữ với giá đặc biệt US$15 ngay từ tác giả Roger Canfield Rogercan@pacbell.net tại 7818 Olympic Way, Fair Oaks, CA 95628, 916-961-6718 hay tại http://americong.com.
Hoàn toàn có thể TRA CỨU hoặc bằng tên, bằng ngày tháng hay biến cố liên quan đến cuộc Chiến cùng cả luôn bọn tham dự biểu tình .
******************************************************
* Tác giả giữ bản quyền © Roger Canfield 1986-2012
- Lê Bá Hùng chuyển ngữ (với sự chấp thuận của Tác giả)
***************
Chương 27
Di sản Bratislava
Các thành tựu của hội nghị Bratislava đã đúc kết tình đoàn kết với bọn Việt Cộng nhưng không đúc kết cho hòa bình. Có một điện tín vô vị lạt lẽo của Bộ Ngoại Giao mà Hayden đã vui mừng lặp lại trong các bộ hồi ký được thanh lọc kỷ càng của y:
19 tháng 9 năm 1967
Tiêu đề: Mỹ – Bắc Việt Nam họp tại Bratislava
A. Bên Mỹ đã thất vọng khi thấy… không khoan nhượng về việc ngừng không tạc … trước khi đàm phán.
B. … Nhiều nhóm nhỏ hổn hợp để thảo luận …trong vòng một hay hai ngày … nhưng đã không có kết quả gì cả.
C. Không khí rất lạt lẽo bấtkể ý định rõ ràng của các nhà tài trợ Hoa Kỳ và Việt Nam hầu phát triển những liên hệ cá nhânsâu đậm.
Người Mỹ không thể nào thuyết phục được người Việt tiếp xúc nhằm tạo ra được những tình bạn như đã mong muốn.
[Tường trình] phóng viên … các cảm tưởng là hội nghị này chỉ là buổi gặp gở chính thức và việc những tên Tân Tả tham dự chỉ là màn hỏa mù để che dấu sự kiện này mà thôi. 1905
“Phe Mỹ” bao gồm bọn Tân Tả và bọn hoạt động cho “hòa bình” mà đa số đã được lựa chọn bởi Tom Hayden, kẻ mà đã đồng ý với chương trình nghị sự của Hà Nội. “Cả “hai” bên trong hội nghị đoàn kết này đều cùng ủng hộ việc Mỹ phải đơn phương ngưng không tạc, rút quân về và đầu hàng.
Bức điện của Bộ Ngoại giao quả rất sai lầm trong kết luận là “đã không có gì xẩy ra” sau các cuộc thảo luận hay các nỗ lực để “phát triển … những mối quan hệ sâu sắc.” Sol Stern đã nói với tác giả là đã có các chuyến đi cả ngày và đêm trên sông Danube, đã có những bài diển văn, những cuộc hội thảo và các cuộc họp riêng rẻ. 1906 Chỉ còn thiếu điều là leo lên giường ăn nằm với mụ Bình, “mối quan hệ ” Mỹ-Việt đã không thể nào sâu đậm hơn được. Theo quan điểm của Bắc Việt thì đã “chính thức” thực hiện được liên lạc với các bạn bè “anh em” của Việt Nam ở Mỹ. Phong trào hòa bình của Hoa Kỳ đã phần lớn trở thành một công cụ giúp cộng sản chiến thắng ở Việt Nam và một số thì cũng hy vọng có thể làm được như vậy ở Mỹ.
Một báo cáo của CIA đã kết luận, “có rất ít tin tức thu lượm được về những gì đã xẩy ra tại Bratislava, ngoài chi tiết về cuộc thảo luận cho các vụ biểu tình được dự tính.” 1907 Mặc dù được giao nhiệm vụ để theo dõi ngay cả “các liên lạc tình-cờ chỉ vì cùng chung quyền lợi”, 1908 rỏ ràng là phúc trình của CIA đã chỉ lướt qua việc “tham khảo và phối hợp” quốc tế thay vì chuyên chú vào chi tiết “không có được bằng chứng về việc chỉ huy hay kiểm soát” nào cả. 1909
CIA đã dứt khoát không chịu nhìn thấy cái con voi đang ngồi chình ình trong phòng họp – 35 cán bộ Cộng sản – ngay chỉ sự hiện diện của chúng cũng đã nói lên tính cách “tham khảo và phối hợp” quốc tế rồi.
Vậy mà vào đầu tháng 10 năm 1967, Bộ trưởng Ngoại giao Dean Rusk đã nói với các ký mục gia Evans và Novak, “Mặc dù đã có tin tình báo rất chi tiết về việc CS kiểm soát phong trào hòa bình, chúng tôi đã vẫn không công bố tin thu lượm được của chúng tôi. Chúng tôi đã không muốn gây ra một phong trào McCarthy mới. ” 1910
Bây giờ thì CIA đang điên cuồng kiếm cách để chứng minh các hành vi về hạt nhân của Iran là vô hại, là các tên khủng bố Palestin một ngày nào đó sẽ chịu đổi đất đề có được hòa bình và việc giao thương sẽ biến Trung cộng thành một quốc gia dân chủ tự do. Chỉ là mơ tưởng, tâm trạng sợ hiểm nguy và luôn luôn cố xoa dịu càng chứng minh một thái độ cố tình tự bịt mắt để không nhận ra một thế giới đầy hiểm nguy trong khi những kẻ khác thì lại có một tầm nhìn chiến lược nhằm đưa đến một nước Mỹ mà sức mạnh và ảnh hưởng sẽ bị suy giảm rất nhiều.
Trong khi Bộ Ngoại giao thì rất thiển cận và bất kể các báo cáo CIA, nhiều điều đã nhanh chóng xảy ra trong hội nghị Bratislava và ngay sau đó.
Chẳng hạn Gitlen đã viết là người Việt Nam “đã biểu lộ lòng biết ơn với phong trào phản chiến một cách mạnh mẻ.” Và “Một (người Mỹ) đã tuyên bố là phong trào phản chiến đúng thật là ” Mặt trận Giải phóng Quốc gia sau các phòng tuyến của LBJ” – ám chỉ cái mà bọn Việt cộng gọi là hậu phương.
Christopher Jencks đã viết trong tờ The New Republic, “Chất keo nối liền Tân Tả và MTGPQG là … một kẻ thù chung: chính phủ Hoa Kỳ, cái hệ thống, cái Định Chế. Sự ngưởng mộ của bọn trẻ cấp tiến đối với MTGPQG đã bắt nguồn từ ý tưởng là MTGPQG đã thàng công chống lại Kẻ Thù , trong lúc không phải như vậy”. 1911
Nhóm Quaker Ross Flanagan đã hối tiếc khi so sánh “tính cách nông cạn … của cuộc phản đối của chính chúng ta” với “nhiệt tình cống hiến cả sinh mệnh” của người Việt . Tay chủ hòa Quaker đã chỉ mong muốn nhữngt hành động bạo lực mà thôi. 1912
Bọn Việt cộng đã rất là từng trải, ngay từ đầu nhất định muốn có một lịch trình chặt chẽ mặc dù mọi người tham dự đều mệt mỏi . Việc thiếu ngủ và mệt mỏi đã khiến các tay bạn bè Mỹ của chúng liền chịu nghe theo. Những phiên họp không bao giờ chấm dứt mà bọn cán bộ SDS từng mệnh danh là nền dân chủ có “sự tham gia” là một phương cách để làm mỏi mệt mọi người cho đến khi bọn lãnh đạo có được những gì chúng muốn.
Phương pháp của phe tả này vẫn cứ tiếp tục cho tới ngày hôm nay trong nhiều cơ quan và tổ chức. Một số lớn các chương trình của chính phủ đòi hỏi phải để công chúng góp ý kiến đã nhấn mạnh vào sự hợp tác của nhiều nhóm có mục tiêu khác nhau, các bên liên hệ mà cần phải họp triền miên hàng ngày lại thêm kéo dài từ tháng nọ đến năm kia. Các điều hợp viên biết nghề thì dể thuê thôi . Một công dân bình thường mà quan tâm đến thì sẽ bị chối từ và rốt cuộc thì chỉ các tay sinh hoạt vì lý tưởng mới trụ lại lâu dài, đủ thời gian để đưa ra các quyết định mang lại lợi ích cho chúng mà lại rất là lãng phí cho nguồn lực công cộng.
Bọn Mỹ Đã Đem Nạn Đĩ Điếm Tới Việt Nam
Tại Bratislava, bọn Việt cộng đã nói với đám Quakers là chính người Mỹ đã đem nạn tham nhũng và đĩ điếm vô Việt Nam. 1913
Trên thực tế, bọn thảo khấu Bình Xuyên ở Sài Gòn đã từng khai thác trong nhiều thập niên cái Hall of Mirrors (Hành Lang Các Gương Soi), với 1.000 phụ nữ đủ mọi màu da, mọi chủng tộc, mọi ngôn ngữ “, 1914 một loại nhà thổ lớn nhất thế giới. 1915 Năm 1967, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã bác bỏ lời cực kỳ gian dối này bằng cách so sánh “tổng số kinh khủng về hãm hiếp, phá rối trật tự công, ấu đả, kình lộn và say rượu khi 10.000 người Pháp ở đây với con số rất ít ỏi về những tệ nạn này khi 400.000 người Mỹ ở tại đây. ” 1916
Tại Paris, cái bọn đàm phán Bắc Việt mà đã từng đổ lỗi cho người Mỹ về nạn mãi dâm thì lại đã có đầy đủ đĩ được đưa từ Việt Nam sang ngay tại cư sở cao cấp của chúng ở Rue Jules Lagaisse thuộc Choisy-le-Roi . 1917
Theo lời Gabriel Kolko, một tên bạn của Hà Nội, “Năm 1996 đã có nhiều đĩ ở thành phố Hồ Chí Minh [Sài Gòn] hơn là ở thời kỳ cao điểm của cuộc chiến tranh.” 1918 Đi vào thế kỷ 21, nạn buôn người lao động và gái mãi dâm Việt Nam đã lại là một trong những dịch vụ xuất cảng lớn nhất của Cộng hòa Dân chủ Việt Nam và cũng là nguồn thu nhập lớn nhất của chúng .
Mỹ đã không hề mang lại nạn mãi dâm tới Việt Nam; việc này đã từng là một ngành thương mại lớn được thành lập có quy củ ngay trước khi họ đến. Tuy vậy, Mỹ sẽ mãi mãi bị đổ lỗi là từng làm hư hỏng người nông dân Việt Nam vô tội với kỷ nghệ mới về mãi dâm.
Cả Bệnh Sốt Rét Luôn
Cũng một kiểu đó, Tiến sĩ Pfiffer của Ủy ban Đặc Trách về Nhiệm vụ Xã hội (Committee for Social Responsibility) dường như đã tin rằng nước Mỹ cố tình nuôi muỗi để truyền bệnh sốt rét trong các hố bom của B-52. 1919 Nước Việt Nam thuộc vùng nhiệt đới thì đã không bao giờ thiếu nước ấm cho muỗi sanh sản dể dàng.
Loại người mà đã sẳn sàng để tin là Mỹ phát minh ra tệ nạn mãi dâm và bệnh sốt rét thì cũng đáng tin đưọc là sẽ chấp nhận bất cứ điều gì Hà Nội nói với chúng. Carol McEldowney đã chấp nhận là Mỹ cố tình ném bom Trường Hữu nghị Ba Lan cho tới 50 lần. 1920
Bất chấp các tuyên bố đầy tự hào của Osama bin Ladens chịu nhận trách nhiệm, sau 9/11 thì vẫn có một số người Mỹ cứ tin là cuộc tấn công Jihad đã được dàn xếp bởi Tổng thống Bush, Phó Tổng thống Dick Cheney và Công ty Halliburton.
Mụ Nguyễn Thị Định, với cái khã năng cố hữu luôn luôn huênh hoang nói láo mà không ngượng mồm của loại con rối tuyệt nhất của Hà Nội, đã cho biết là 1.000.000 quân đã “sa lầy” tại Việt Nam cũng như là MTGPQG đã đang mở rộng các vùng mình kiểm soát cùng với ảnh hưởng của chúng. Trong thực tế thì chỉ trong vòng sáu tháng, các cán bộ Việt Cộng sẽ bị quét sạch trong trận Tết Mậu Thân khi mà các “tổ cảm tử” và các “nhóm quyết tử” được giao cho nhiệm vụ để “tiêu diệt … (các bạo chúa và gián điệp)” 1921 và người dân tại các thôn làng miền Nam đã sẽ quyết định không tham gia “cuộc nổi dậy” của Việt Cộng “.
Nguyễn Minh Vỹ, khi lưu ý về hành vi tuyệt vọng của Mỹ trong việc gần đây đã phải hy sinh tới ba phi cơ cùng phi hành đoàn để chỉ dội bom phá xập một cây cầu nhỏ, mà ngay sau đó cũng đã nhanh chóng được tu sữa lại xong, đã không nói lên sự kiện là người Mỹ đã hy sinh như vậy trong những nỗ lực để tránh giết thường dân nếu phải dùng những quả bom lớn hơn.
Chiến thắng của Việt Cộng thì đã chắc chắn. 1922 Nhưng chiến thắng tối hậu sẽ phải phụ thuộc rất lớn vào các cuộc họp với bọn bạn Mỹ của Hà Nội tại Bratislava, Paris và Hà Nội, ngõ hầu lót đường cho chiến thắng trên các chiến trường ở Nam Việt.
Một số tên từng đến Bratislava và Hà Nội đã có mang về những lưu-niệm. Chúng đeo những “chiếc nhẫn bằng nhôm đúc” , mà chúng đã được cho biết làm từ phế liệu của một phóng pháo cơ Mỹ bị bắn rơi trong một cuộc không kích. Một bọn ít hơn thì đã có được các vỏ bom và những viên bi chống cá-nhân. ” 1923
Vài tuần sau buổi hội đoàn kết của Hayden tại Bratislava, Ủy ban Đoàn kết Á-Phi Việt Nam đã được tổ chức tại Hà Nội vào ngày 4 tháng 10 năm 1967. Hoàng Bắc, một cán bộ của Ủy ban, đã lên tiếng ca ngợi “việc biểu hiện hùng hồn của tình đoàn kết chiến đấu giữa các dân tộc châu Á nhằm chống lại kẻ thù chung, bọn chủ nghĩa đế quốc xâm lược Mỹ “.
Hoàng Bắc tường trình:
Hội nghị nhất trí thông qua một nghị quyết lên án các cuộc diễn tập tân thực dân đầy tính phản trắc và tàn bạo của bọn đế quốc Mỹ … để duy trì ách thực dân của chúng ở châu Á … [Cái] nghị quyết nói lên lòng nhất trí của nhân dân Việt Nam để đánh bại hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược … “ 1924
Đám cổ võ Mỹ từng binh “Việt Cộng”, tuy là một thực thể tưởng tượng thì lại được đánh giá cao tại Hà Nội. Bratislava đã giúp đem phong trào phản chiến gần lại hơn với bọn cộng sản, trong cả về chiến lược lẫn chiến thuật.
*****
1905 Điện tín Bộ Ngoại Giao được đăng lại trong tờ Reunion, trang 208-209.
1906 Canfield phỏng vấn Sol Stern.
1907 Hồ sơ CIA số EO-2000-00054, “International Connections of Peace Groups,” 15 tháng 11 năm 1967, trang 27.
1908 Sách về các công điện CIA gởi từ Phó Giám đốc Đương nhiệm về các Kế hoặch tới nhiều nhiệm sở, tháng 11 năm 1967, trang 1-2 nêu ra trong tài liệu Church Commission, trang 692, ghi chú 26.
1900 Như trên, Church Commission, trang 692.
1910 Evans và Novak, “The Unvarnished Rusk Reveals Pique of Pseudo-Intellectual Critics of War,” Washington Popst, 11 tháng 10 năm 1967.
1911 Gitlen, trang 263-4.
1912 Ross Flanagan năm 1967 nêu ra trong tài liệu của Hershberger, trang 141.
1913 Christopher Jenks, “Negotiations Now? Reflections on a meeting with the Enemy,” The New Republic, 7 tháng 10 năm 1967.
1914 Anne Miller, “Land of the Open Fly,” trong sách của Santoli, To Bear Any Burden, trang26.
1915 Mark Moyar, Triumph Forsaken, trang 41.
1916 Thiệu lặp lại lời LBJ, Bộ 044 nêu trong sách của Stephen Sherman và Bill Laurie, “A Brief Overview of the Vietnam National Army and the Republic of Vietnam Armed Forces (1952-1975),” 1967, http://www.virtualarchive.vietnam.ttu.edu/cgi-bin/starfetch.exe?7FITJFRq49eVidf6r@jtQThI9RPJ8FknVylzv1drwkkO2eo4TAZ0AjVqqu8LidLQE93mdH3DrXGU3re9@bFIA6pSGg0KQmpmNt4c3RSej7tCt6m.2FySMg/1-ShermanLaurie.ppt
1917 Larry Berman, No Peace, No Honor, trang 62.
1918 Gabriel Kolko, Vietnam; Anatomy of a Peace, London: Routledge, 1997, trang 108.
1919 Steve Halliwell, “how to read the boozh press” , “New Mobilization Committee to End the War in Vietnam”, “Moratorium Mushrooms. Builds Momentum for November 13-15,” New Mobilizer, Số 3 và 8 tháng 10 năm 1969.
1920 Carol McEldowney, Hanoi Journal, trang 47.
1921 “(268) Directive from Province Standing Committee to District and local Party Organs on Forthcoming Offensive and Uprisings,” 1 tháng 11 năm 1967, tài liệu số 28, Viet-Nam Documents and Research Notes , tháng 4 năm 1968, History of Vietnam War on Microfilm, 011159, trang 478-9.
1922 Bronson Clark, “Quaker exchanges in Bratislava,” DG-74, hộp số 2, Bratislava. 5-13 tháng 9 năm 1967, Swarthmore College Peace Collection, nêu trong sách của Hershberger, trang 141.
1923 Gitlen, Sixties, trang 264.
1924 “Hanoi Meeting,” Hanoi, VNA, Chương trình Quốc tế Anh ngữ ~ International Service in English, 0242, GMT, 5 tháng 10, trang 67B.
One Response to “Roger Canfield’s Americong #27”