Roger Canfield’s Americong #180

image002

Comrades in Arms

How the Americong Won the War in Vietnam

Against the Common Enemy— America

Copyright Roger Canfield, Ph.D.

1986-2012

No commercial transaction allowed except that approved by the author, copyright holder.

Obtain a prepublication release of a CD-R in Microsoft Word in ENGLISH at a discounted price of $15 from Roger Canfield Rogercan@pacbell.net at 7818 Olympic Way, Fair Oaks, CA 95628, 916-961-6718 or at http://americong.com.

Completely SEARCHABLE for any name, date, place or event of the War and its protesters.   

Cover: Design Stephen Sherman. Photos: Roger Canfield, March 2008. TOP: War protest Hawaii, February 1966 displayed at War Remnants (Crimes) Museum, Saigon. Bottom: Praetorian Guard

Các đồng chí cùng chiến tuyến

Làm thế nào MỹCộng thắng cuộcchiến Việt Nam

Chống kẻ Thù Chung – Mỹ

Giữ bản quyền Roger Canfield, Tiến Sĩ

1986-2012

Không được sử dụng vào mục đích thương mại nếu không có sự đồng ý của Tác giả, người giữ bản quyền.

Có thể mua một tiền bản dưới dạng CD-R Microsoft Word bằng Anh ngữ với giá đặc biệt US$15 ngay từ tác giả Roger Canfield  Rogercan@pacbell.net tại 7818 Olympic Way, Fair Oaks, CA 95628, 916-961-6718 hay tại  http://americong.com.

Hoàn toàn có thể TRA CỨU hoặc bằng tên, bằng ngày tháng hay biến cố liên quan đến cuộc Chiến cùng cả luôn bọn tham dự biểu tình .

******************************************************

* Tác giả giữ bản quyền © Roger Canfield 1986-2012

  • Lê Bá Hùng chuyển ngữ  (với sự chấp thuận của Tác giả)

 *****

Phần XI:

 

 HỒI CUỐI:

Việt Nam (và Cambodia)

Bị “Giải Phóng”

 

180. Nixon Từ Nhiệm, Canh Bài Cuối Đã Tới.

181. Không Ai Lại Đi Đếm Quan Tài.

 

*****

Rất lâu sau khi quân đội Mỹ đã rút khỏi Việt Nam và một hiệp ước hòa bình đã bị ký kết tại Ba-lê vào tháng Giêng năm 1973, các cá nhân và các tổ chức chính yếu của phong trào phản chiến của Mỹ đã cho thấy rỏ ràng là chúng không hề bao giờ quan tâm đến cái mục tiêu hòa bình, mà chỉ là phải đánh được ván vài cuối để mang lại một chiến thắng cho bọn cộng sản ở Nam Việt Nam, Lào và Campuchia mà thôi.

Tổ chức Coalition to Stop Funding the War (Liên minh Ngăn chặn Tài trợ Chiến tranh) và đám hậu duệ thành lập từ America Friends Service Committee, ASFC, Clergy And Laity Concerned, CALC, Episcopal Peace Fellowship of Reconciliation, Indochina Mobile Education Project, Indochina Peace Campaign, IPC, Indochina Resource Center, IRC, International Committee to Free South Vietnamese Prisoners from Detention, Torture and Death, Medical Aid for Indochina, MAI, People’s Coalition for Peace and Justice, SANE, Vietnam Veterans Against the War, Women’s International League for Peace and Freedom, WILPF, War Resisters League, Women Strike for Peace. Các nhà thờ với quy chế miển thuế là United Methodist Church, Board of Social Concern, United Church of Christ và United Presbyterian Church đã đều cùng nhau tài trợ cho cái Trung Tâm được hưởng quy chế miển thuế là Indochina Resource Center.

 Chương 180

Nixon Từ Nhiệm, Canh Bài Cuối Đã Tới

Tới ngày 8 tháng 8 năm 1974 thì Richard Nixon từ chức và Phó Tổng Thống  Gerald Ford đã lên thay làm Tổng Thống.

Bọn lãnh đạo thành công nhất của phong trào phản chiến là Dave Dellinger, Tom Hayden và Jane Fonda đã cùng nhau ăn tiệc mừng. Jane tuyên bố là chính phong trào hòa bình đã kết thúc được chiến tranh và một trong ba người họ vào một ngày sắp tới đây sẽ là Tổng thống. 5116

Sau này thì một Ủy viên Trung ương Đảng ở Hà Nội là Mai Chí Thọ đã sẽ có nói với các tù chính trị là “Hồ Chí Minh có thể là một kẻ xấu xa còn Nixon thì mới là một người đàn ông tuyệt vời. … Chính chúng tôi đã thuyết phục được mọi người là Hồ Chí Minh lại tuyệt vời còn Nixon chỉ là một tên sát nhân… “. Y bèn giải thích,” Yếu tố chính yếu là phải làm sao để kiểm soát nhân dân và quan điểm ​của họ. Chỉ có chủ nghĩa Mác và Lê-nin mới có thể làm được điều đó mà thôi”.   5117

Trung Ương Cục Miền Nam do Hà Nội kiểm soát đã ra Chỉ thị số 08 huấn thị các cán bộ là “việc từ chức của Nixon … đã khiến đám tay sai Nguyễn Văn Thiệu và bè lũ bị hoàn toàn bối rối không biết sẽ phải làm sao”.  5118

Vào cuối tháng 7 và đầu tháng 8 năm 1974 thì bọn lãnh đạo Hà Nội bèn duyệt xét lại các dữ kiện chiến lược.

Mặc dù chương trình Bình Định Nông Thôn đã thành công vô hiệu hóa các thành công về chính trị của chúng ở miền Nam nhưng phong trào đấu tranh vẫn cứ “phát triển” một cách “chậm chạp không ngừng nghỉ”, các hoạt động tuyên truyền đã được tiến triển tốt đẹp tại Hoa Kỳ, nơi mà Quốc hội đã đang thảo luận để cắt bỏ viện trợ cho Thiệu và rồi Tổng thống Nixon sẽ sớm phải từ chức. Quyết tâm và ngay cả tài nguyên của Mỹ cứ đã đang giảm dần đi. 5119

Khi tới giữa tháng 8 mà Quốc hội đã cắt giảm phân nửa số quân viện cho miền Nam Việt Nam để chỉ còn là 700 triệu Mỹ kim thì Việt Cộng bèn đưa Chỉ thị số 08/CT74 để báo cáo việc này cùng việc không kích và yểm trợ pháo binh của Mỹ để yểm trợ cho  Sài-gòndađng bị suy giảm, để đi đến kết luận là “tình hình kinh tế cùng tài chính đang xuống cấp (mang) đầy ý nghĩa chính trị nghiêm trọng mà sẽ ảnh hưởng  [đến] tất cả các khía cạnh quân sự, các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội của quân địch …”. 5120

Viên cố vấn cho Tổng thống Ford là Warren Nutter đã cho Tổng Thống Thiệu của Việt Nam Cộng Hòa biết là “Đám Indochina Resource Center ~ Trung tâm Tài nguyên Đông Dương [liên kết với IPC] đang cố gắng để tiêu diệt đất nước của ngài”.  5121 Bọn CIA mà lâu nay vẫn cứ ngủ yên bình không làm gì cả suốt trong cuộc chiến tranh Việt Nam thì nay lại cũng bèn tắt cáiđènbáođộng đi để cứ tiếp tục ngủ ngon lành  và từ chối không cho phép quân báo Mỹ có thể hoạt động tại Campuchia và sau đó thì cũng sớm dẹp bỏ được luôn cả các điệp vụ quân sự tình báo Mỹ khỏi Cuba và luôn cả Hy Lạp.

Các cuộc hội họp trong tháng 9 và tháng 10 của bọn chủ hòa với đám Việt Cộng đều cho thấy quả chính phủ VNCH mới là kẻ thù chung của chúng.

Các Phái Đoàn Phản Chiến Gặp Gở Đối Lập tại Nam Việt

Vào tháng 9 và tháng 10 năm 1974 thì y thị của Weatherman là Arlene Eisen Bergman (cũng có tên là Arlene Wilma Eisen, rồi là bà Lincoln Bergman) và một đồng hành là Margaret Randall đã đi Hà Nội rồi tới thăm các khu vực “giải phóng” tại miền Nam Việt Nam trong suốt một tháng trời và nhân đó chúng đã được tiếp đón bởi Phan Thị An, Nguyễn Thị Định, Trần Thị Hưng, Nguyễn Thanh Hương, Bùi Thị Mể, Nguyễn Khánh Phượng, Võ Thị Thế, Trần Thanh Tuyền và Lê Thị Xuyên. Trên làng báo chí tạp lục Mỹ thì đám phụ nữ này đã kêu gọi phải chấm dứt “việc can thiệp về quân sự và về hành chính của chính quyền Mỹ…”. 5122

Những luận điệu thi vị hơn nhiều thì cũng đã có thể được tìm thấy trong cuốn sách của Bergman, quyển Women of Vietnam ~ Phụ nữ Việt Nam mà chỉ như là một bản quảng cáo kiểu tuyên truyền của Hà Nội mà đã được ráng vội vã in cho kịp vào năm 1974 bởi nhà xuất bản People’s Press, gồm những bài viết của Bergman, Susan Adelman, Diana Block, Penny Johnson, Jane Norling và Peggy Tucker. Mặc dù Bergman có cho biết y thị đã bắt đầu viết vào năm 1972 và đã bỏ ra cả hàng tháng trời để cho duyệt lại bởi nhiều người khác thì nội dung sách cũng chỉ đơn thuần là một tài liệu thô thiển nhất được in lại từ tài liệu tuyên truyền 5123 của bọn Hà Nội, đúng cho tới  cả từng chữ một:

• CPCMLT là đại diện hợp pháp duy nhất của nhân dân miền Nam Việt Nam và MTGPMN là một liên minh của các nhóm độc lập miền Nam Việt Nam ;

• Đảng CS Đông Dương đã được thành lập để đấu tranh dành độc lập cho dân tộc Việt Nam và để chống lại chế độ phong kiến ​​;

• Nhờ không có cái chủ nghĩa tư bản nên phụ nữ Việt Nam đã đoàn kết được lại với nhau, một tình trạng không thể bao giờ có được tại Hoa Kỳ;

• Chế độ của Diệm đã dựng nên những ấp chiến lược và các trại tập trung cũng như đã từng phát động một chiến dịch khủng bố ;

• Mỹ đã từng có một chính sách diệt chủng và hủy hoại mọi sinh vật; việc hãm hiếp hàng loạt có hệ thống đã là một chính sách của Mỹ và “là một thành phần của một chủ nghĩa pha lẫn và tương trợ nhau của chủ nghĩa  tư bản, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và chủ nghĩa kỳ thị nam nữ”;

• Đã từng có tới cả hai trăm ngàn thanh niên Mỹ phải bỏ trốn đi sống bất hợp pháp thay vì phải đi phục vụ tại Việt Nam;

• Quân đội Hoa Kỳ đã bị nhồì sọ nặng nề về chính trị ;

• Chỉ có các bẫy thô sơ làm bằng tay của Việt Cộng mới từng đã gây ra phần lớn các thương vong cho Mỹ màthôi;

• Một phụ nữ Việt Nam đã từng giết được tới cả 26 tên địch trước khi bỏ mạng  trong trận chiến ;

• Hóa chất giết hoa cỏ đã từng tàn phá cho tới cả 60 % diện tích đất canh tác ở miền Nam Việt Nam ;

• Bọn lính Mỹ GI [lương hàng tháng thì chỉ là 100 Mỹ kim và ngay cả cũng không có được một chiếc xe hơi] thì lại cứ vòng vòng chung quanh khách sạn Continental để tìm đĩ;

• Hà Nội đã từng dẹp sạch được tệ nạn đĩ điếm thời Pháp thuộc còn bọn CIA thì lại là sư tổ buôn bán ma túy ở Đông Dương ;

• Việc bọn Mỹ cứu hàng ngàn trẻ mồ côi Việt Nam chỉ  là một vụ bắt cóc và đó là hành vi tàn bạo cuối cùng của chúng trong thời chiến tranh ;

• Trong vùng giải phóng, CPCMLT đã chủ trương một chính sách hòa giải và không hề có trả đũa đối với binh lính và các quan chức  của Thiệu;

• Thiệu đang giam 250.000 tù chính trị ;

• Cảnh sát miền Nam Việt Nam từng đốt cháy núm vú và lông mu phụ nữ và nhét những con lươn còn sống vào âm đạo của họ ;

• Bắc Việt chỉ công nhận có 500 vụ hành quyết trong đợt cải cách ruộng đất năm 1954 ;

• Phụ nữ có ” trách nhiệm chính là bắn rơi phi cơ tới bỏ bom”;

• Nam Việt Nam đã từng cưởng bách cả mười triệu người phải rời khỏi nhà cữa  trong chính sách đô thị hóa;

• Nhờ chính sách cải tạo của xã hội chủ nghĩa, “việc kinh doanh kiếm lợi, cái nguồn gốc của mọi sự bất bình đẳng, đã được loại bỏ hoàn toàn trong nước VNDCCH”,

• Trong Tết Mậu Thân 1968, Việt Cộng “đã chiếm đóng” được tòa Đại sứ Mỹ . 5124

Toàn là láo khoét nhưng kẹt là lại được quá nhiều người tin nghe theo.

Trong tháng 10 năm 1974, Carol Kurtz củng hai tên của IPC đã đến thăm Sài Gòn và gặp gỡ đám đại diện của “lực lượng thứ ba” đối lập với Thiệu như là mụ Ngô Bá Thành, Hồ Ngọc Nhuận, linh mục Chân Tín, sư cô Huỳnh Liên, Trần Ngọc Liểng. Bọn này cũng đã gặp các đại diện miền Bắc của Ủy ban đoàn kết Việt Mỹ tại Sài Gòn: tên Lưu, tên Quốc, tên Quất, Lian và Hayn. Ngoài ra thì cũng có các tên đại diện cho MTGPMN là Nguyễn Phước, Lê Hải và Nguyễn Thị Tĩnh. Sau này Kurtz đã viết:  “Bọn chúng tôi không ai ngờ được là chỉ không đầy sáu tháng sau đó thì tất cả các nhân viên Mỹ sẽ phải leo lên trực thăng một cách nhục nhã để rời khỏi Việt Nam mà để lại đất nước Việt Nam cho nhà cầm quyền chính đáng, Nhân dân Việt Nam” . 5125

Việc Nixon Từ Nhiệm Đã Khiến Hà-nội Quyết định Thử Lữa Ý Chí Của Mỹ

Trong tháng 9 năm 1974, Bắc Việt đã tổ chức một cuộc họp đặc biệt để thảo luận về tầm quan trọng của việc từ chức của Nixon cũng như để làm sao trắc nghiệm việc này trên các chiến trường tại miền Nam Việt Nam. Liệu Mỹ sẽ tái tiếp tế cho miền Nam Việt Nam như Nga và Trung cộng đã làm cho Hà Nội? Đã có được một dấu hiệu từ tân Tổng thống Gerald Ford. Trong tháng 9 năm 1974 Tổng thống đã đề nghị ân xá cho đám đào ngũ và trốn lính Mỹ. Rất nhiều binh sĩ từng phục vụ tại Việt Nam hay từng có thân nhân phục vụ tại đó đã cảm thấy bị xúc phạm. 90% quân nhân đều rất là tự hào về vai trò của họ. 5126 Họ bèn gởi trả hàng trăm huy chương chiến tranh ngập tràn mấy hộp thư của Tòa Bạch Ốc để phản đối. 5127

Khi đã hèn hạ chịu thua đám đào ngũ và trốn quân dịch như vậy thì không ai tin được  là Tổng thống Ford sẽ sử dụng quyền hạn của vị Tổng Tư Lệnh mà sẽ tiếp tục cung cấp viện trợ quân sự như Nixon đã từng hứa với Thiệu trước khi ký kết Hiệp định Ba-lê vào tháng giêng năm 1973.

Tới tháng 9 thì Hà Nội đã ra Chỉ thị số 08 gởi đi các cương lĩnh mới để hướng dẫn chung cho cả bốn bộ tư lệnh Trung Ương Cục Miền Nam tại miền Nam Việt Nam, cho biết quyết định về việc sẽ sử dụng toàn thể các lực lượng chính quy Bắc Việt. Quân đội Bắc Việt sẽ phải tham gia vào một cuộc “cách mạng bạo lực ” để “giết các tên bạo chúa” hầu đánh bại cho được chương trình Bình Định Nông Thôn và dành lại quyền kiểm soát nhân dân. Các đơn vị chính quy sẽ chủ yếu là mở rộng và củng cố các vùng được giải phóng và hỗ trợ các hoạt động ám sát của VC. Chỉ thị 08 cũng nhấn mạnh sự cần thiết phải phối hợp các hoạt động quân sự với các hoạt động tuyên truyền sẽ được mở rộng ra ở nước ngoài, đặc biệt là với các mặt trận ở châu Âu và Hoa Kỳ. 5128

Đó đã là một kế hoạch để tiêu diệt chính quyền Thiệu bằng cả khủng bố, quân sự và chính trị ở ngoại quốc. “Con đường dẫn đến thành công … chính là con đường bạo lực dựa trên các lực lượng chính trị và quân sự … Cương Lĩnh … phối hợp vũ khí  … với hành vi tiêu diệt bọn bạo chúa địa phương”.  Chỉ thị số 08 cho biết, “Chừng nào mà bọn cầm quyền quan lại, quân phiệt, phát xít tay sai Mỹ mà vẫn chưa bị lật đổ thì chắc chắn chúng sẽ không chịu thi hành các quy định căn bản của hiệp định (Ba-lê)  và sẽ cố gắng để lại tái khởi động chiến cuộc”.  5129  Thật rỏ ràng là Hà Nội đã không hề bao giờ chủ trương sẽ thi hành Hiệp định, cái hiệp định mà đã không bao giờ có quy định là Thiệu sẽ phải bị loại bỏ.

Tới tháng 10 thì tên Tham mưu trưởng quân Bắc cộng là Văn Tiến Dũng đã tuyên bố, “chúng tôi, các cán bộ quân sự” đã nhận ra được là Tổng thống  Nam Việt Thiệu nay bây giờ đã đang bị buộc phải chiến đấu theo kiểu “chiến tranh nhà nghèo” với cả  60 % hỏa lực bị cắt giảm và 50 % phần trăm yếu kém hơn về khã năng di động. 5130

Lợi dụng nhân vụ từ chức của Nixon và nhờ cuộc bầu cử trong tháng 11, đảng Dân chủ đã có thêm được 76 dân biểu và tám thượng nghị sĩ để có thể chắc chắn nắm được quyền đa số hầu phủ quyết nhân vụ “Watergate” tại Hạ viện (291-144) và Thượng viện (61-39) và tiếp tục có thể làm tê liệt các quyền hạn của vị tổng tư lệnh là viên Tổng thống Ford mà đã không hề được dân bầu lên.

Nền Dân Chủ Tại Sài-gòn rất Là Hiệu Quả

Vào tháng 10 năm 1974, cái chính quyền Nam Việt Nam mà đã cứ từng bị phỉ

báng lâu nay đã rỏ ràng không hề  là một quốc gia cảnh sát trị nhưng lại là một nước cộng hòa hoạt động hữu hiệu với các cuộc bầu cử tổng thống công khai, một cơ quan lập pháp lưỡng viện và 2.113 hội đồng làng xã do dân bầu ra. Phe đối lập thì gồm có 19 thành viên tại Thượng viện, cũng như đã chiếm tới 37% tại Hạ viện, còn báo chí thì cực kỳ tự do, những đặc điểm về tự do như vậy lại hoàn toàn không hề bao giờ được hưởng thụ ở Bắc Việt Nam hay sau 1975 trên toàn cõi Việt Nam.

Trong số cả hàng triệu người tỵ nạn cứ thường xuyên bôn ba vì cuộc chiến cứ kéo dài thì cho tới tháng 6 năm 1974, chỉ còn lại có 60.000 người phải sống trong các trại tỵ nạn trong con số cả 20 triệu sinh linh Nam Việt Nam.

Khoảng 5 triệu người thuộc số 750.000 gia đình nông dân đã được hưởng lợi do  việc được sở hữu chính ngay đất đai của mình theo Chương Trình Người Cày Có Ruộng trong khi các chủ ruộng vắng mặt thì đều đã nhận được đền bù rất là công bằng. 5131

Hành Hương Tìm Hòa Bình Tới Việt Nam, Bulgaria,

Trong tháng 10 năm 1974, Carol Kurtz thuộc Indochina Peace Campaign (Vận động Hoà Bình cho Đông Dương) của cặp Hayden-Fonda đã tới thăm vùng “giải phóng” Quảng Trị tại Nam Việt và có gặp Nguyễn Phước, Lê Hải và Nguyễn Thị Định, 5132  cái mụ gọi là chỉ huy quân sự của đám Việt Cộng.

Từ 24 tháng 10 đến 11 tháng 11 năm 1974, tên thành viên United Methodist là Doug Hostetter bèn bay tới Cộng hòa Dân chủ Việt Nam, 5133 có lẽ để chuyển giao tài trợ về y tế cho Việt cộng cùng với Quỹ cứu trợ Bệnh viện Bạch Mai mà có thể cũng để nhận các chỉ thị tối hậu cuối cùng cho phong trào chủ hòa vào lúc việc ‘giải phóng’ Đông Dương đang gần kề.

Từ 10 đến 17 tháng 11 năm 1974 tại Varna, Bulgaria thì Liên đoàn Thanh niên để Giải phóng miền Nam Việt Nam đã có trình bày các “ưu tiên về hành động” của chúng cho Ann Sparanese của Lữ đoàn Venceremos và những tên khác trong phái đoàn Mỹ tới tham dự Liên Hiệp Thanh niên Dân chủ Thế giới lần thứ IX do Xô Viết điều khiển. “Cắt đứt mọi viện trợ cho Thiệu (mà) đã gây bao tội ác chống lại nhân dân ta. … Hành động buộc số 20.000 cố vấn quân sự Mỹ phải rút hoàn toàn về nước  … Xúc tiến … để lật đổ Thiệu”. Ngoài ra bọn Bắc cộng còn đòi cho tới 3 tỷ Mỹ kim về bồi thường chiến tranh. 5134

Và đến ngày 13 tháng chạp năm 1974 thì Liên đoàn Thanh niên Hồ Chí Minh Hà Nội đã gửi “những lời chân thành cảm ơn (về) tình đoàn kết của quý bạn trong cuộc chiến chống chủ nghĩa đế quốc Mỹ của chúng ta …” tới nhóm thanh niên của Đảng Cộng Sản Hoa Kỳ CPUSA là tụi Young Worker’s Liberation League, YWLL  (Liên đoàn Công nhân Giải phóng Trẻ) đang họp tại khách sạn Bellevue- Stratton ở New York. 5135

*****

5116  James W. Clinton phỏng vấn David Dellinger, 23 tháng giêng năm 1991 trong sách của James W. Clinton, The Loyal Opposition: Americans in North Vietnam, 1965-1972, Niwot: University Press of Colorado, 1995, trang 60.

5117  Đoàn Văn Toại, “A Lament for Vietnam,” New York Times Magazine, 29 tháng 3 năm 1981.

5118  “Part I: COSVN Directive 08: North Vietnam’s Military Plans for 1975”, trang 12, Bộ Sưu tầm của Pike Collection, TTU, Virtual Archive, đề tài số 2123104008.

5119  Tòa Đại Sứ Mỹ tại Sài-gòn, Các Ghi chú Tìm Hiểu Research Notes, “Introduction and Discussion” của “Part I: COSVN Directive 08: North Vietnam’s Military Plans for 1975”, trang  2, Bộ Sưu tầm của Pike Collection, TTU, Virtual Archive, đề tài số 2123104008.

5120  “Part I: COSVN Directive 08: North Vietnam’s Military Plans for 1975”, trang 9, Bộ Sưu tầm của Pike Collection, TTU, Virtual Archive, đề tài số 2123104008.

5121  Palace File, trang 241.

5122  “U.S. Women Visit Vietnam”, Oakland Tribune, 6 tháng 10 năm 1974 có viện dẫn Thông Tấn Xã Giải Phóng; FBI, FOIA, Weather Underground. Nguồn tin chính đã là phúc trình SAC Đương nhiệm Chicago gởi cho Giám đốc, “Foreign Influence-Weather Underground Organization”, 20 tháng 8 năm 1976, trang 238.

5123  Ủy ban Tố cáo Tội Ác Chiến tranh của Đế quốc Mỹ, “Crimes Perpetuated by U.S. Imperialists and Henchmen Against South Vietnamese Women and Children”,  nhà xuất bản Việt Nam: Giải Phóng, 1968;  Wilfred Burchett, Viet Nam will Win.

5124  Arlene Eisen Bergman, Women of Vietnam, San Francisco: People’s Press, 1974 (ấn bản 1975) trang  8, 58, 50, 53, 57, 58, 63, 64, 66, 72, 75, 83, 91, 104, 106, 124, 129, 138, 168,

5125  Carol Kurtz, Friends of Indochina Organizing Committee, Thơ gởi cho Thành, Nhuận, Tín, Liên và Liểng, March 13, 1974.

5126  Thống kê Vietnam War Statistics,  http://www.mrfa.org/vnstats.htm

5127  Barry Schweid, ”Ford Remembered As a Realist’”, AP,  28 tháng chạp năm 2006.

5128  “Part I: COSVN Directive 08: North Vietnam’s Military Plans for 1975”, trang 2-4, bộ sưu tập Pike Collection, TTU, Virtual Archive, đề tài số 2123104008.

5129  “Part I: COSVN Directive 08: North Vietnam’s Military Plans for 1975”, trang  14-15,18, bộ sưu tập Pike Collection, TTU, Virtual Archive, đề tài số 2123104008.

5130  Văn Tiến Dũng, Our Great Spring Victory, trang 17-18 được viện dẫn trong sách  Palace File, trang 246 ghi chú 1.

5131  Bộ Ngoại Giao, “Background Notes (South) Vietnam”,  Tháng 10  năm 1974, trang 8 và 9.

5132  Kurtz và đồng bọn tới Tòa Đại sứ Việt cộng tại Havana, 1 tháng 2 năm 1976; Kurtz tuyên bố với Việt Mỹ,  PRG-RSVN, 14 tháng 3 năm  1976, các bản sao chụp được do Max Friedman cung cấp.

5133  Tài liệu lưu trữ Doug Hostetter, 1967-2001, Hộp 1, 6 trong số 62 hộp, ủy ban Mennonite Church USA Historical Committee and Archives tại  mcusa-archives.org/personal_collections /HostetterDoug.html. Hộp 10 có tài liệu của Doug Hostetter, ”Brief Report of My Trip to Southeast Asia”.

5134  Ann Sparanese, “Vietnamese Make Urgent Appeal to U.S. People”, Venceremos, một ấn bản của bọn Venceremos Brigade, Bộ 2, Số 4 Tháng Giêng Năm 1975, trang 2.

5135  “World youth hail parley”, Daily World, 13 tháng chạp năm 1974, trang 2.

*****

 

 

One Response to “Roger Canfield’s Americong #180”

Trackbacks/Pingbacks

  1. Giới thiệu tác phẩm AMERICONG (MỸ-CỘNG) – Lê Bá Hùng | Ngoclinhvugia's Blog - 05/01/2016

    […] Roger Canfield’s Americong #180 […]

Leave a comment

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.